Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

3/5 - (7 bình chọn)

4. Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

a. Âm đệm:

Được ghi bằng bán âm u hoặc o. Đây là âm làm tròn môi trước khi đọc âm chính, làm cho âm tiết có âm sắc trầm tối (gọi là bán âm, vì mặt chữ thì giống như nguyên âm, nhưng công dụng lại không giống như nguyên âm).

– Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ, uya).

– Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).

– Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm tròn môi o, ô, u nữa.

– Khi phát âm, không được dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.

b. Âm chính: Vị trí âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm

Nguyên âm: là những âm tự nó phát ra âm thanh mà không cần nhờ tới một âm nào khác: làn hơi từ phổi ra qua thanh đới mở-đóng tạo cao độ của âm thanh, còn hình thể các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động của lưỡi và hàm dưới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau (hình 11).

Phân loại: có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).

* Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra:

+ Nguyên âm hàng trước (lưỡi đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt): e, ê, i/y, iê (ia).

+ Nguyên âm hàng giữa (lưỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn): a (ă), ơ (â), ư, ươ (ua).[1]

+ Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u, uô (ua).

* Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại:

+ Nguyên âm rộng: e, a, o (âm lượng lớn)

+ Nguyên âm vừa: ê, ơ, ô (âm lượng vừa)

+ Nguyên âm hẹp: i, ư, u (âm lượng nhỏ)

+ Nguyên âm hẹp mở qua vừa: iê, ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)

Ghi chú:

– ă là âm ngắn của a

– â là âm ngắn của ơ

– o và ô đôi lúc có dạng âm dài là: oo, ôô (xoong, bôông) ia, ua, ưa là âm phức không có âm cuối (Td: chia, chua, chưa )

Ta có bảng tóm kết các nguyên âm như sau:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

– Âm chính cùng với thanh điệu là hai yếu tố tối thiểu phải luôn luôn có mặt trong âm tiết, nếu không sẽ không có âm tiết: ả, ổ, ố…

c. Âm cuối:

Vị trí âm cuối do các bán âm cuối và phụ âm cuối đảm nhận.

* Bán âm cuối có 2 loại:

– Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y:

+ Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â: ăy, âu (hãy lấy: đáng lẽ ra chính tả phải ghi “hẵy” mới đúng ngữ âm).

+ Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trước, bẹt miệâng): ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.

– Bán âm cuối tròn môi (lưỡi rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o:

+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)

+ Được ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, ău (trâu, tàu: đáng lẽ chính tả phải ghi “tằu” mới đúng ngữ âm)

+ Được ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)

+ Được ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)

Lưu ý: khi gặp ay thì phải phân tích là ăy, khi gặp au thì phải phân tích là ău

* Phụ âm cuối gồm 8 âm chia làm 4 cặp như sau:

– Phụ âm môi: m – p (đóng tiếng bằng 2 môi): làm đẹp, rập rạp…

– Phụ âm đầu lưỡi: n – t (đóng lưỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt…

– Phụ âm mặt lưỡi: nh – ch (đóng mặt lưỡi lên vòm miệng): chênh chếch, rách, rình

Lưu ý: nh – ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e – ê – i: enh ech, ênh êch, inh ich. Do đó, khi chính tả ghi anh, ach, ta phải phân tích là enh ech mới đúng.

– Phụ âm cuống lưỡi: ng – c (đóng cuống lưỡi lên vòm mềm): vang, dốc, vằng vặc…

Lưu ý: khi ng – c đi sau các nguyên âm hàng sau o – ô – u, thì không phải chỉ đóng cuống lưỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi nữa (ta phải ộc tiếng làm cho 2 má hơi phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng).

Ghi chú:



– Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh điệu sắc hoặc nặng, làm cho vần phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng loại, cổ thi gọi các vần đó là vần chết (tử vận).

– Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hưởng – nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại.

– Các vần có âm cuối gọi là VẦN ĐÓNG, các vần không có âm cuối gọi là VẦN MỞ.

5. Thanh điệu:

Gồm có sáu thanh: (1) ngang, (2) huyền, (3) ngã, (4) hỏi, (5) sắc, (6) nặng; được ký hiệu phiên âm bằng số 1 – 6 theo thứ tự trên.

a. Thanh điệu là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết. Nó ảnh hưởng lên toàn bộ âm tiết, nhưng khi viết nó được ghi trên hoặc dưới âm chính là nguyên âm đơn. Gặp nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó được ghi trên yếu tố đầu của âm phức (thí dụ: Chúa, chìa, chừa). Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm cuối thì thường ghi thanh điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó.

Thí dụ: vướng, tiếng, chuồng.

b. Phân loại dựa tên âm vực: có 2 loại cao và thấp

– Âm vực cao: thanh ngang, thanh ngã, thanh sắc

– Âm vực thấp: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng

c. Phân loại dựa trên âm điệu: có 2 loại bằng và trắc

– Âm điệu bằng: thang ngang, thanh huyền

– Âm điệu trắc: (không bằng phẳng)

+ Có đối hướng (gãy): thanh ngã, thanh hỏi

+ Không đối hướng: thanh sắc, thanh nặng

Có thể tóm kết trong bảng sau đây:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

Ghi chú: Các chữ để trong ngoặc đơn là tiếng Hán mà cha ông ta đã dùng trong thi văn cổ. Riêng “khứ” khắc với “nhập” ở chỗ thanh nhập âm điệu bị rút ngắn hơn thanh khứ.

Thí dụ: “má, “hán” (khữ) đọc dài hơn là “mát” (nhập) (thanh nhập đi với các âm cuối p, t, ch, c).

* PHẦN THỰC TẬP

1. Tập đọc các nguyên âm đơn hàng trước, hàng giữa, hàng sau

– Phối hợp các phụ âm với các nguyên âm trên.

2. Tập đọc các âm cuối:

– Mai, măy, mao, mău, mam, máp, man, mát, mang mác…

– Tai, tăy, tao, tam, tan, tang…

– Mái, mắy, máo, mắu, mám, máp, mán, máng, mác. (Thay bằng các phụ âm đầu khác).

3. Tập phân biệt phụ âm đầu: xa # sa, la # na, tra # cha (thay các nguyên âm khác).

4. Tập phân tích ngữ âm tất cả các chữ trong bài “Khúc Nhạc Cảm Tạ” và tập đọc cho đúng cách cấu âm của từng chữ, nhất là các phụ âm đầu và âm cuối: “Tình Chúa cao vời, ôi tình Chúa tuyệt vời, Người đã yêu tôi, muôn đời đã thương tôi, thương tôi từ thuở đời đời. Người đã cho tôi tiếng nói tuyệt vời, âm thanh chơi vơi ru hồn phơi phới, tiếng nói yêu thương, bay khắp muôn phương, vang lên khúc nhạc cảm tạ ngàn đời” (56 âm tiết).

Phân tích theo mẫu sau đây:

Bảng phân tích ngữ âm và xử lý ngôn ngữ bài “Khúc Nhạc Cảm Tạ” (xem giấy đính kèm)

– Lúc đầu chỉ phân tích đến mục “âm cuối”, còn “loại vần”, và “xử lý cụ thể” sẽ điền vào, sau khi đã học bài xử lý ngôn ngữ.

– Xử lý cụ thể là xét vần đó hát như thế nào, mở đóng ra sao, đóng ở dấu nào cụ thể trong từng bài hát.

5. Ôn lại các mẫu luyện thanh đã học.

* CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam là gì?

2. Cho biết âm tiết tiếng Việt gồm những yếu tố nào Yếu tố nào luôn luôn có mặt trong âm tiết?

3. Loại âm nào giữ vị trí âm đầu? Âm chính? Âm đêm? Âm cuối?

4. Nguyên âm là gì? Có những loại nào? Liệt kê ra

5. Phụ âm là gì? Có những loại nào? Liệt kê ra

6. Tại sao gọi là bán âm? Bán âm giữ những vị trí nào trong âm tiết?

7. Phụ âm cuối là những âm nào? Cấu âm ra sao?

8. Thanh điệu có mấy loại? Vẽ bảng tóm kết các thanh điệu .

———————————————————

[1]. Một số sách về Ngữ âm VN gọi là nguyên âm hàng sau không tròn môi, so với các nguyên âm hàng sau tròn môi o-ô-u-uô. Ở đây chúng tôi theo Ông Nguyễn Bạt Tụy, vì thấy tiện lợi cho ngườiời học thanh nhạc. (Xem Nguyễn bạt Tụy,Ngôn ngữ học VN, Chữ và Vần Việt khoa học,SG 1958, tr.50) BÀI VII

XỬ LÝ NGÔN NGỮ VIỆT NAM TRONG CA HÁT

Một bài hát gồm có Nhạc và Lời, trong đó lời ca là yếu tố nền tảng để xây dựng âm nhạc. Lời định hướng cho nhạc, để nhạc chắp cánh cho Lời. Vì thế, khi ca hát không rõ lời, là vô tình đánh mất yếu tố nền tảng, có khả năng miêu tả, trình bày chi tiết, cụ thể tình ý, nội dung của bài hát, yếu tố âm nhạc còn lại rất lẻ loi, sẽ không diễn tả được đầy đủ nội dung bài hát, có khi còn làm cho nó tệ hơn. Cho nên, hát rõ lời thuộc về bản chất của tiếng hát, nghĩa là đã hát thì cần phải rõ lời, nếu không thì nó cũng giống như nhạc không lời mà thôi.

Cha ông ta trong tiếng hát dân ca hoặc cổ truyền, rất chú trọng đến việc hát rõ lời. “Thuật ngữ “tròn vành rõ chữ” là cách nói khái quát của cha ông ta về yêu cầu và quan niệm đối với nghệ thuật ca hát, và về kỹ thuật, phương pháp ca hát cổ truyền dân tộc. Tiếng hát “tròn vành” là âm thanh nghe gọn gàng, đầy đặn, trau chuốt sáng sủa ; “rõ chữ” là lời ca nghe rõ ràng, không phải đoán nghĩ mới hiểu, không thể hiểu lầm ra ý khác. “Tròn vành rõ chữ” vì vậy là sự kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật âm nhạc và tiếng nói dân tộc, là sự nâng cao, làm đẹp, khai thác, phát huy đến cao độ tính tượng hình, tượng thanh và mọi đặc điểm ngữ âm dân tộc bằng nghệ thuật âm thanh của giọng hát.” [1]

Như vậy, tiếng hát nào cũng phải bảo đảm được tính thông đạt, tính dân tộc và tính nghệ thuật. Sự thiếu rõ lời làm mất cả 3 tính. Nguyên nhân thiếu rõ lời có thể do:

1. Phát âm, cấu âm chưa đúng cách, lời ca nghe loáng thoáng chữ được chữ mất.

2. Cấu âm theo kiểu ca kịch Tây phương, tiếng hát nghe “ồm ồm, ngọng nghịu vì bắt chước nước ngoài một cách thiếu sáng suốt, nếu không nói là nô lệ” [2]

3. Lối viết các bè vào chống chất lên nhau mà hát lời ca khác nhau, âm vận và ý nghĩa khác nhau, nên vô hiệu hoá nhau.

Ở đây chúng ta tìm cách khắc phục hai nguyên nhân đầu, bằng cách tìm hiểu xem phải xử lý (1) phụ âm đầu, (2) các loại vần và (3) các thanh điệu như thế nào để cho tiếng hát đẹp đẽ, vang khoẻ mà vẫn rõ lời.

I. XỬ LÝ PHỤ ÂM ĐẦU:

1. Nói chung, cách phát âm các phụ âm đầu trong ca hát giống như trong tiếng nói hằng ngày. Chỉ cần cấu âm cho đúng tiêu điểm như: môi bật môi, răng đụng môi, lưỡi đánh lên răng, chân răng, hàm ếch… thì âm đầu nối kết với vần sẽ rõ ràng. “Bật môi, đánh lưỡi” một cách linh hoạt và nhẹ nhàng, đó là bí quyết của các phụ âm. Cần tránh “lối hát gằn, xiết, rung, bật mạnh phụ âm đầu…, nói chung không tự nhiên, vì không phù hợp với tiếng Việt” [3]

2. Đặc biệt cần uốn nắn sửa chữa một số cách cấu âm không đúng của một số địa phương đối với một số phụ âm đầu như:

– s đọc thành x

– tr đọc thành ch

– l đọc thành n

– r đọc thành z hoặc g

II. XỬ LÝ CÁC LOẠI VẦN:

Như trên đó nói, người ta phân biệt hai loại vần chính, đó là vần đóng và vần mở. VẦN ĐÓNG tận bằng các âm cuối gồm bán âm i/y và u/o và các phụ âm cuối m – p, n – t, nh – ch, ng – c. Còn VẦN MỞ thì tận bằng các nguyên âm đơn hoặc nguyên âm phức ia, ưa, ua.

1. Vần mở:

Có 2 loại nhỏ: mở đơn và mở phức.

a. Vần mở bằng nguyên âm đơn (gọi tắt là mở đơn): Các âm tiết không có âm cuối, mà chỉ tận bằng nguyên âm: e, ê, i/y, a ơ, ư, o, ô, u. Khẩu hình khi hát thường phải mở rộng hơn khi nói. Sau đây là khẩu hình các nguyên âm đơn khi luyện thanh:

* Các nguyên âm hàng giữa:

+ A: Được coi như nguyên âm mẹ, khẩu hình mở rộng vừa chiều cao vừa chiều ngang, cằm hạ xuống, mép hơi bành ra, tạo thành hình dáng bên ngoài hơi tròn hơn là bẹt. Răng dưới được môi che khuất, còn răng cửa phía trên có thể lộ ra ít nhiều tuỳ người. Mặt lưỡi bằng, đầu lưỡi tiếp giáp nhẹ với răng dưới. Khi đọc chữ A nét mặt vui như muốn cười (như tiếng reo vui A !, khi con tháy mẹ đi chợ về). Tập mở rộng cả khẩu hình phía trong bằng cách nâng hàm ếch mềm và hạ cuống lưỡi: tiếng vang tốt khi làn hơi phóng lên giữa vòm miệng.

+ Ơ: Là nguyên âm cùng hàng với A, nhưng khẩu hình hẹp hơn bằng cách nâng cằm lên.

+ Ư: Cũng là nguyên âm cùng hàng với A, nhưng khẩu hình hẹp hơn Ơ ; cằm nâng lên gần sát với hàm trên, nhưng răng không đụng nhau.

* Các nguyên âm hàng trước:

+ E: Khẩu hình không rộng bằng A, nhưng bẹt ra 2 mép, răng trên hơi lộ ra, lưỡi hơi đưa ra phía trước, mặt lưỡi hơi nhô lên.

+ Ê: Khẩu hình hẹp hơn E, cằm dưới hơi đưa ra, lưỡi nâng lên hơn một chút.

+ I/Y: Khẩu hình hẹp nhất trong hàng, 2 mép hơi giành ra như khi cười, răng lộ ra đôi chút, lưỡi nâng lên phía trước gần vòm miệng nhưng không đụng vào, răng sát nhau mà không chạm nhau.

* Các nguyên âm hàng sau:

+ O: Khẩu hình khá tròn, tuy không rộng bằng A, phần giữa của môi hơi nhô ra trước. Lưỡi rụt vào phía sau, mặt lưỡi cong lên gần che lấp lưỡi gà.

+ Ô: Môi nhô ra và chúm lại làm cho khẩu hình phía ngoài thu nhỏ hơn O. Nhưng khẩu hình phía trong mở dọc xuống nhờ hạ lưỡi và nâng hàm ếch mềm.

+ U: Môi chúm lại, nhô ra như khi ta muốn huýt sáo: Khẩu hình thu nhỏ nhất so với O.

Lưu ý:

– Vị trí cộng minh của e – ê – i ở phía trước, vị trí cộng minh của o – ô – u ở phía sau trong miệng, còn vị trí cộng minh của a – ơ – ư ở phía giữa miệng. Khi muốn cho âm thanh phóng ra phía trước, người ta thường mượn âm sắc của các âm hàng trước để hát các âm hàng giữa và hàng sau (xem lại mẫu luyện thanh 10 và 11: mượn vị trí của I để hát A – Ô rồi trở lại Ê).

– Khi ngân dài ở nguyên âm đơn, phải giữ nguyên khẩu hình cho đến hết dấu nhạc mới thôi. Nếu không, sẽ làm cho âm sắc tối lại và dễ làm xuống giọng.

b. Vần mở bằng nguyên âm phức (gọi tắt là mở phức): ia (ya), ưa, ua.

Khẩu hình ban đầu mở theo các nguyên âm hẹp của mỗi hàng (i – ư – u), có thể kéo dài trên các yếu tố đầu này khi cần, rồi mở rộng hơn sang các âm vừa và dừng lại ở âm Ơ, chứ không mở rộng sang đến âm A như chính tả ghi:

– CHIA có thể ngân CHIIIÊƠ

– CHƯA có thể ngân CHƯƯƯƠ

– CHUA có thể ngân CHUUUÔƠ

Thí dụ 1:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

Lưu ý:

– Khi mở đơn cũng như khi mở phức mà có âm đệm, thì luôn luôn lướt mau từ khẩu hình tròn môi “U” rồi sang nguyên âm chính ngay, chứ không dừng lại trên âm đệm được. Đây là cách để phân biệt âm đệm với yếu tố đầu của âm phức:

– Các vần mở đơn gồm có:

OA (toa, qua)

OE (toe, que)

ƯƠ (thuở, quơ)

UÊ (tuế)

UY (tuy)



Vần mở phức: UYA (khuya)

2. Vần đóng:

Có 2 loại tương ứng với 2 cách đóng: đóng bằng bán âm và đóng bằng phụ âm.

a. Vần đóng bằng bán âm I/Y và U/O:

Chỉ khép bớt khẩu hình lại, chứ không đóng hẳn, làn hơi vẫn tiếp tục đi ra theo đường miệng, còn gọi là “thu đuôi” chữ. Có 2 cách thu đuôi:

– Thu đuôi bằng cách nâng lưỡi, bẹt miệng nhờ bán âm I/Y

– Thu đuôi bằng cách rụt lưỡi, tròn môi nhờ bán âm U/O

Thí dụ 2: Cao vời, phơi phới, yêu tôi đời đời, chơi vơi (trong bài “Khúc Nhạc Cảm Tạ”) ; người giàu đói nghèo, kẻ đói no giàu (trong bài “Ôi Thần Linh Chúa”)…

b. Vần đóng bằng phụ âm cuối M – P, N – T, NH – CH, NG – C:

Các phụ âm cuối này làm cho làn hơi khi phát ra đến cuối chữ thì bị cản lại, bị đóng lại ở môi hoặc lưỡi, khiến làn hơi, nếu muốn ngân tiếp thì phải đi qua đường mũi.

– Đóng bằng 2 môi nhờ các phụ âm M – P: nâng cằm nhẹ nhàng cho 2 môi đụng vào nhau. Hai phụ âm này có thể đi sau tất cả mọi nguyên âm, trừ Ư.

– Đóng bằng đầu lưỡi đưa lên chân răng trên, đồng thời nâng cằm nhẹ nhàng, nhờ các phụ âm N – T. Lưu ý phụ âm đầu “T” cấu âm khác với phụ âm cuối “T”. Hai phụ âm này có thể đi sau mọi nguyên âm.

– Đóng bằng mặt lưỡi đưa lên vòm miệng, nhờ các phụ âm NH – CH, cằm nâng lên nhẹ nhàng, bẹt miệng không khép răng. Hai phụ âm này chỉ đi sau 4 nguyên âm hàng trước E – Ê – I – YÊ: enh ech, ênh êch, inh ich, uyênh uyêch (Thí dụ: vanh vách, đènh đẹch, vênh vếch, thình thịch, huỳnh huỵch, huyênh, khuyếch…). Riêng vần ENH ECH, chính tả ghi lầm là ANH ACH. Khi phân tích ngữ âm cũng như khi phát âm, gặp A trong “anh ach” phải đọc như E.

– Đóng bằng cuống lưỡi đưa lên vòm mềm (hàm ếch mềm), nhờ các phụ âm NG – C, (hơi nâng cằm dưới mà không đóng môi, không khép răng, khẩu hình bên ngoài vẫn mở) khi NG – C đi sau các âm hàng giữa (a-ă-ơ-â-ư), các âm phức (iê, ươ, uô), các âm dài (oo, ôô) và âm hàng trước rộng (e).

– Đóng bằng cuống lưỡi và hai môi nhờ NG – C khi chúng đi sau các âm hàng sau o – ô – u: ong oc, ông óc, ung uc… Cần phải ộc tiếng để tạo khoảng trống trong miệng bằng cách hơi phồng hai má.

Thí dụ: ròng rọc, phong phóc, xồng xộc, hùng hục…

c. Các nguyên tắc xử lý các vần đóng:

– Nói chúng, tất cả các vần đóng bằng bán âm hay phụ âm, đều có thể thu đuôi hoặc đóng sớm khi không cần phải ngân vang, hoặc khi hát những bài dân ca hay bài theo phong cách dân ca.

– Tuy nhiên, có một số vần đóng buộc phải đóng sớm mới rõ lời, phù hợp với đòi hỏi của ngữ âm, dù hát ở cao độ hay cường độ nào cũng vậy. Đó là:

1. Các vần có âm chính là âm ngắn (ă, â): ăy, ây, ău, âu, âm âp, ăm ăp, ăn ăt, ân ât, ăng, ăc, âng âc.

2. Các vần có âm chính là âm hẹp (i, ư, u): iu, ưi, ưu, ui, im – ip, um – up, in – it, ưn – ưt, un – ut, ưng – ưc, ung – uc.

3. Các vần có âm chính là âm hàng trước (e – ê – i – yê) đi với NH – CH: enh ech, ênh êch, inh ich, uynh uych, uyênh uyêch, (khi gặp anh ách là phải đọc như enh ech: đóng sớm).

4. Các vần có âm chính là âm hàng sau (o – ô – ư) đi với NG – C: ong oc, ông ôc, ung uc: đóng sớm bằng phương thức ộc tiếng.

– Các vần đóng còn lại thì có thể đóng từ từ, nhất là khi cần vang tiếng (dấu nhạc ở âm khu cao cần cường độ lớn).

Đóng từ từ là khẩu hình từ độ mở nguyên thuỷ phải dần dần thu đuôi hoặc đóng tiếng bằng cách khép môi, nâng đầu lưỡi, nâng mặt lưỡi hoặc nâng cuống lưỡi từ từ theo thời gian cho phép. Không đứng khựng lại, không dồn từng nấc, mà phải đóng liên tục cho tới khi vần được đóng hẳn ở cuối chỗ phải ngân. Trong phần xử lý cụ thể, ca viên phải định được mình phải đóng hẳn ở dấu nhạc nào, ở phần phách nào. Đây là một kỹ thuật đóng khá khó, cần phải tập luyện nhiều mới nhuyễn và mềm mại được.

Thí dụ 3:

– Êm dịu khôn xiết (bài Ôi Thần Linh Chúa)

– Đàn hát (réo rắt tiếng hát)… Đến xem (nơi hàng Bê-lem)

– Trông về hang đá Bê-lem… Người đem ân phúc

– Mẹ toả hương thơm ngát (bài Mẹ triển dương của Vinh Hạnh)

– Thánh thánh thánh ! – Bóng ngã trăng chênh…

– Đêm đông lạnh lẽo… Muôn dân ca tụng… Hoàn vũ khâm sùng…

BẢNG TÓM KẾT CÁC VẦN BUỘC PHẢI ĐÓNG SỚM

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

d. Mấy điểm cần lưu ý:

– Các âm cuối ít nhiều đều ảnh hưởng lên độ mở của các âm chính đi trước nó, bằng cách rút ngắn hoặc thu nhỏ lại.

– Các phụ âm tắc P – T – CH – C tạo nên những vần trắc chỉ đi với dấu nặng và dấu sắc: tấp nập, sát phạt, khúc nhạc, huých, hịch. Người soạn nhạc nên tránh những vần tắc, nhất là vần có dấu sắc với âm chính là các âm ngắn (ă, â), âm hẹp (i, u, ư)… mà lại phải ngân ở âm vực cao, cần cường độ mạnh như:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

– Trong lối hát cổ truyền của dân tộc, cha ông chúng ta thường dùng các âm i, ư, ơ để ngân nga sau khi đã đọc dứt các vần, kể cả vần mở cũng vậy, hoặc i hi, ư hư, ơ hơ, có khi dùng cả âm a để mở vần.

* Trong dân ca:

+ Một bầy tang tình con nhện (ơ) ấy mấy giăng tơ. (Trống cơm).

+ Voi giấy ơi a voi giấy (ơ) tít mù nó mới lại vòng quanh (ơ)… (Đèn cù).

+ Chung quanh bên vàng mây vàng (ư)… (Trống quân).

+ Nhất quế nhị lan nhất (ư) xinh (i i), nhất xinh nhất lịch (i i I)… (Bài nhất quế nhị lan, Quan họ Bắc Ninh).

* Trong Chèo thường ngân bằng âm i, trong Tuồng ngân bằng ư hư…

* Trong Cổ giáo nhạc Công giáo cũng dùng âm i để ngân nga:

+ Mấy lời vạn phục (i) mấy ngành (a) mấy ngành Mân côi (i i i i) (Tiến hoa mùa thương).

+ Tôi là Tô (i) mà. Tô (i) ma… ở trong là trong xác thịt (i i i i) tựa loài (a la) loài tính (a la) thiêng. (Thánh Tô-ma).

Đây chỉ dẫn chứng vài nét thô sơ của lối hát cổ truyền. Người ca hát chuyên nghiệp còn cần đi sâu nghiên cứu các lối hát khác nhau của tổ tiên để áp dụng vào thanh nhạc Việt Nam.

III. XỬ LÝ THANH ĐIỆU:

1. Trong phân tích ngữ âm, người ta chỉ phân biệt âm vực CAO – THẤP. Nhưng trong tiếng nói và tiếng hát, thì tối thiểu phải phân biệt 3 mức độ cao thấp tương ứng với:

– Sắc, ngã (âm vực cao)

– Ngang (âm vực trung)

– Huyền, nặng, hỏi (âm vực thấp)[4]

2. Và các thanh gãy Ngã, Hỏi đều phải dùng từ 2 dấu nhạc trở lên có cao độ khác nhau thì hát lên nghe mới rõ lời rõ ý. Do đó, trong thanh nhạc gọi các thanh gãy là thanh kép. Các hư từ “sẽ, đã, hãy, của…” không quan trọng cho ý chính của câu, có thể dùng không kép, nhất là khi nét nhạc đi nhanh ; còn các chữ quan trọng thì phải kép cẩn thận.

Thí dụ:



Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

3. Thanh Nặng, tuy không phải là thanh gãy, nhưng là thanh tắc họng khác với thanh Huyền cũng thuộc âm vực thấp nhưng không tắc họng: Vì thế, muốn cho thanh Nặng rõ ràng phân biệt với thanh Huyền, thì cũng nên kép thanh Nặng. Nếu không kép bằng 2 dấu nhạc có cao độ khác nhau, thì ít nhất bằng 2 dấu cùng cao độ:

Thí dụ:



– Một bầy tang tình con sít (ấy mấy) lội, lội, lội sông (Trống cơm)

– Thương con như gà mẹ, ủ ấp con dưới cánh (Tán tạng hồng ân)

– Khớp con ngựa ngựa ô… anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen…

– Chớ quên lời mẹ(e)

4. Có khi, để có sự thuần nhất trong lối viết, chúng ta cũng có thể kép cả dấu sắc, huyền, ngang (Thí dụ: “Thương tôi từ thuở đời đời”). Đó thật ra là cách ngân nga ngắn, thường thấy, nhưng đừng quá cầu kỳ mà làm sai dấu giọng, như:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

5. Trong giọng nói, giọng đọc của một người, thì cao độ tương đối giữa các thanh điệu thường giữ một vị trí nhất định từ đầu tới cuối, trừ khi ta thay đổi sắc thái biểu cảm như ngạc nhiên, sửng sốt, kêu gọi, nhấn mạnh… thì giọng nói cao hơn ; hoặc khi buồn rầu, đau khổ, thủ thỉ… thì giọng nói thấp hơn, nhưng lúc đó toàn bộ hệ thống cao độ thanh điệu cũng được nâng lên hạ xuống.

6. Trong giọng hát, toàn bộ hệ thống thanh điệu có thể nâng lên rất cao hoặc hạ xuống khá thấp: “Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời” (Hang Bê-lem), nhưng phải giữ tương quan cách biệt giữa 3 âm vực CAO – TRUNG – THẤP trong từng cụm từ.

7. Người Ca trưởng, khi ý thức được tầm quan trọng của thanh điệu, có thể làm cho “Rõ lời đẹp tiếng” hơn bằng cách:

a. Thêm những dấu nhạc phụ như dấu nhấn, dấu thêu thùa, để kép các thanh HỎI và NGÃ.

b. Hát rõ dấu NẶNG bằng cách thêm dấu nhấn cùng cao độ.

Thí dụ a:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

Thí dụ b:

Vần lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệm + âm chính + âm cuối

YÊU CẦU BÁO GIÁ